Lịch sử hình thành và phát triển của ISO 22000
Trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển, yêu cầu về an toàn thực phẩm ngày càng tăng cao. ISO 22000 trở thành một trong những tiêu chuẩn quan trọng trong ch...
Lỗi tiếng ồn chính là phần âm thanh gây ra khó chịu cho con người phát sinh ra do sự chuyển động của các chi tiết hoặc bộ phận của máy do va chạm.
Trong điều kiện tiếng ồn kéo dài sẽ khiến phát sinh ra một số bệnh nghề nghiệp như điếc, viêm thần kinh thực vật và rối loạn cảm giác hoặc khả năng tập trung lao động sản xuất. Cơ thể người lao động trở nên mệt mỏi và hay cáu gắt kèm buồn ngủ. Ngoài ra việc tiếp xúc với tiếng ồn lâu sẽ khiến người lao động bị giảm thính lực và điếc.
Rung là hoạt động cơ học có ảnh hưởng lâu dài đến cơ thể của người lao động. Việc rung từng bộ phận có ảnh hưởng cục bộ xuất hiện ở cánh tay và ngón tay khi làm việc với cưa máy và búa máy, máy đánh bóng. Qúa trình làm việc bị rung nhiều và lâu sẽ khiến cho tay bị mất cảm giác và ngoài ra còn gây ảnh hưởng đến huyết quản của thần kinh cũng như khớp xương và cơ bắp về lâu dài.
Rung toàn thân thường xảy ra đối với những người làm việc trên phương tiện giao thông, máy hơi nước, máy nghiền... Chấn động làm co hệ thống huyết mạch, tăng huyết áp và nhịp đập tim. Tuỳ theo đặc tính chấn động tạo ra thay đổi ở từng vùng, từng bộ phận trên cơ thể người
Nguồn bức xạ: Một số nguồn bức xạ có thể kể đến như sau:
-Mặt trời phát ra các bức xạ hồng ngoại và tia tử ngoại.
-Hồ quang trong việc hàn cắt kim loại và nắn đúc thép phát ra bức xạ tử ngoài.
Với những người bị ảnh hưởng bởi các bức xạ như này có thể bị say nắng, giảm thị lực và gặp những hiện tượng như đau đầu, chóng mặt và giảm thị lực dẫn đến các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Phóng xạ:
Đây là dạng đặc biệt của bức xạ: Chính tia phóng xạ pahts ra do sự biến đổi bên trong của hạt nhân nguyên tử ở một số nguyên tố và khả năng I ôn hóa vật chất. Những nguyên tố đó gọi là nguyên tố phóng xạ.
Những tia phóng xạ này gây ra tác hại đến cơ thể người lao động ở dạng: gây nhiễm độc cấp tính hoặc mãn tính. Biểu hiện là khiến rối loạn các chức năng của thần kinh trung ương, nơi bị chiếu phóng xạ thường bị bỏng hoặc rộp đỏ, vô sinh, ung thư và tử vong.
Việc chiếc sáng không đảm bảo sẽ làm tăng phế phẩm và giảm năng suất lao động một cách đáng kể. Chiếu sáng thích hợp góp phần bảo vệ thị lực, chống căng thẳng và mệt mỏi và tránh được các bệnh nghề nghiệp đồng thời làm tăng năng suất lao động.
Bụi là tập hợp của nhiều hạt có kích thước nhỏ bé tồn tại trong không khí, Nguy hiểm nhất có lẽ là bụi có kích thước từ 0,5 cho đến 5 micromet. Một khi công nhân, người lao động hít phải khí thải hoặc các loại bụi này sẽ có đến 80% lượng bụo đi vào phổi và làm tổn thương hoặc gây ra bụo phổi.
- Bụi hữu cơ: nguồn gốc từ động vật, thực vật.
- Bụi nhân tạo: nhựa, cao su...
- Bụi kim loại: sắt, đồng ...
- Bụi vô cơ: silic, amiăng ...
Mức độ nguy hiểm, có hại của bụi phụ thuộc vào tính chất lý học, hóa học của bụi. Bụi có thể gây cháy hoặc nổ ở nơi có điều kiện thích hợp; làm giảm khả năng cách điện của bộ phận cách điện, gây chập mạch; Gây mài mòn thiết bị trước thời hạn; Làm tổn thương cơ quan hô hấp xây sát, viêm kinh niên, tuỳ theo loại bụi có thể dẫn đến viêm phổi, ung thư phổi; Gây bệnh ngoài da; Gây tổn thương mắt.
Bệnh bụi phổi phổ biến hiện nay bao gồm:
+ Bệnh bụi phổi silíc (Silicose) là do bụi silic, hiện nay ở nước ta có tỷ lệ rất cao chiếm khoảng 87% bệnh nghề nghiệp.
+ Bệnh bụi phổi Amiăng (Asbestose) do bụi Amiăng.
+ Bệnh bụi phổi than (Antracose) do bụi than.
+ Bệnh bụi phổi sắt (Siderose) do bụi sắt.
Hóa chất ngày càng được dùng nhiều trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản như: Asen, Crụm, Benzen, rượu, các khí bụi, các dung dịch axít, bazơ, kiềm, muối, các phế liệu, phế thải khó phân hủy. Hóa chất độc có thể ở trong trạng thái rắn, lỏng, khí, bụi....tùy theo điều kiện nhiệt độ và áp suất.
Nhóm 1: Chất gây bỏng kích thích da như Axít đặc, Kiềm...
Nhóm 2: Chất kích thích đường hô hấp như Clo, amoniắc, SO3,...
Nhúm 3: Chất gây ngạt như các oxít các bon (CO2, CO), mê tan (CH4)...
Nhóm 4: Tác dụng lên hệ thần kinh trung ương như H2S (mùi trứng thối) , xăng...
Nhóm 5: Chất gây độc cho hệ thống cơ thể như hyđrôcacbon các loại (gây độc cho nhiều cơ quan), benzen, phênol, chỡ, asen ....
Khi tiếp xúc với hóa chất độc, người lao động có thể bị nhiễm độc qua đường tiêu hóa, đường hô hấp hoặc qua da. Trong đó, theo đường hô hấp là nguy hiểm nhất và chiếm tới 95% trường hợp nhiễm độc. Chất độc thâm nhập vào cơ thể và tham gia cỏc quá trình sinh hoá có thể đổi thành chất không độc, nhưng cũng có thể biến thành chất độc hơn. Một số chất độc xâm nhập vào cơ thể và tích tụ lại. Chất độc cũng có thể được thải ra khỏi cơ thể qua da, hơi thở, nước tiểu, mồ hôi, qua sữa... tùy theo tính chất của mỗi loại hóa chất.
Một số nghề người lao động phải tiếp xúc với vi sinh vật gây bệnh, vi khuẩn, siêu vi khuẩn, ký sinh trựng, cụn trựng, nấm mốc như các nghề: chăn nuôi, sát sinh, chế biến thực phẩm, người làm vệ sinh đô thị, người làm lâm nghiệp, nông nghiệp, người phục vụ tại các bệnh viện, khu điều trị, điều dưỡng phục hồi chức năng, các nghĩa trang...