Hướng dẫn kiểm soát nhiệt độ HACCP
Kiểm soát nhiệt độ trong quy trình HACCP đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm và ngăn chặn nguy cơ ngộ độc thực phẩm. Đây là yếu tố cần....
Tín chỉ carbon được thiết lập dành cho nhiều lĩnh vực, ngành nghề. Trong bài viết này, hãy cùng KNA CERT tìm hiểu Tín chỉ Carbon rừng là gì?
Tín chỉ carbon rừng là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một tấn khí carbon dioxide (CO2) hoặc một tấn khí carbon dioxide (CO2) tương đương. Các dự án tín chỉ carbon rừng thường được triển khai ở các khu vực có nguy cơ mất rừng cao, nơi có nguy cơ chuyển đổi rừng thành đất canh tác, đô thị hóa hoặc khai thác gỗ trái phép. Các hoạt động trong dự án có thể bao gồm khôi phục rừng tự nhiên, trồng rừng mới, quản lý bền vững rừng hoặc hạn chế khai thác gỗ.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận định việc phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng ở Việt Nam không chỉ đúng với xu hướng của thế giới, mà sẽ góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế xanh.
Tại COP26, Việt Nam cam kết về mục tiêu đạt phát thải ròng bằng "0" vào 2050; tham gia Tuyên bố Glasgow và cam kết giảm phát thải khí mê tan. Chiến lược BĐKH (2022), NDC (2022) hướng đến thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 và thích ứng BĐKH. Kế hoạch thực hiện Tuyên bố Glasgow đang được xem xét phê duyệt nhằm đảo ngược tình trạng mất rừng. Tại Việt Nam, thị trường carbon chia làm 2 loại là thị trường bắt buộc và thị trường tự nguyện.
Để thực hiện chương trình thương mại carbon trong Lâm nghiệp tại Việt Nam, cần xây dựng khung pháp lý để thúc đẩy thương mại các-bon trong lâm nghiệp đối với thị trường carbon trong nước và quốc tế, đặc biệt giai đoạn đến 2027 trước khi có thị trường carbon trong nước. Cần xây dựng các tiêu chuẩn các bon cho các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính và tăng hấp thụ các bon, xây dựng năng lực về thiết lập dự án thương mại carbon và thực hiện MRV (công cụ đánh giá các hoạt động giảm phát thải khí nhà kính).
Việt Nam xác định thị trường carbon là một trong những công cụ định giá carbon hữu hiệu trong việc triển khai hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, đóng góp vào cam kết giảm phát thải khí nhà kính của quốc gia (NDC). Hiện nay, Việt Nam đang tham gia Chương trình Sẵn sàng thực hiện thị trường carbon (PMI) cho giai đoạn từ nay đến năm 2030. Việt Nam sẽ hoàn thiện thể chế, triển khai thí điểm một số lĩnh vực để sau năm 2027 sẽ vận hành được thị trường các-bon trong nước.
Như vậy từ năm 2028, các doanh nghiệp, đơn vị phát thải lớn bắt buộc phải đầu tư các giải pháp giảm phát thải, và chi phí chắc chắn không hề nhỏ. Nếu các nhà máy, doanh nghiệp không thể giảm phát thải hoặc không tuân thủ Cơ chế giảm và bù đắp carbon, họ sẽ phải mua tín chỉ carbon để bù đắp lượng phát thải của mình.
Khi thị trường tín chỉ carbon được vận hành, tất cả các doanh nghiệp sản xuất đều phải xây dựng phương án để cắt giảm phát thải. Mặt khác hệ thống này cũng sẽ thúc đẩy doanh nghiệp chuyển sang công nghệ sạch hơn, ít carbon và hiệu quả hơn.
Hiện có 46 quốc gia và 35 vùng lãnh thổ áp dụng hoặc lên kế hoạch áp dụng công cụ định giá carbon, với tổng lượng khí nhà kính được kiểm soát 12 tỷ tấn CO2 tương đương, chiếm 22,3% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Đây là hướng đi tiềm năng bởi chỉ tính riêng năm 2019, nguồn thu từ định giá carbon toàn cầu lên đến 45 tỷ USD.
Tại Việt Nam, ước tính có thể bán ra 57 triệu tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế và nếu tính theo giá 5 USD/tín chỉ, mỗi năm, có thể thu về hàng trăm triệu USD. Đó là những con số rất ấn tượng hứa hẹn sẽ mang lại nhiều cơ hội cho thị trường tín chỉ carbon rừng.
Lâm nghiệp là ngành không những có vai trò đặc biệt quan trọng đóng góp để thực hiện cam kết môi trường mà còn là nguồn tài chính tiềm năng thông qua thương mại carbon rừng.
Theo thống kê, ngành Lâm nghiệp Việt Nam năm 2021 có 14.7 triệu ha (chiếm 42% độ che phủ), 2.2 triệu ha (15%) rừng đặc dụng, 4.6 triệu ha (32%) rừng phòng hộ, 7.8 triệu ha (53%) rừng sản xuất. Trong đó, 60% do Nhà nước quản lý và 40% giao hộ gia đình, cá nhân, tổ chức.
Phân bố trữ lượng các bon rừng thì có 80% rừng tự nhiên, 20% rừng trồng. Về chính sách giảm phát thải (GPT) và chiến lược phát triển Lâm nghiệp (PTLN) chúng ta có Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định giảm phát thải ở tất cả các lĩnh vực và phát triển thị trường carbon trong nước.
Là một quốc gia có tỉ lệ che phủ rừng lớn trên thế giới, ngành lâm nghiệp Việt Nam không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước. Hiện có hơn 25 triệu dân Việt Nam đang sống phụ thuộc vào rừng. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều quốc gia phát triển khác trên thế giới, công tác bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi nguồn tài chính thiếu ổn định và chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu thực tế của ngành.
Thị trường carbon đã được cộng đồng quốc tế thúc đẩy như là một trong những cơ chế tài chính hiệu quả để giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng, bảo vệ rừng và nâng cao trữ lượng carbon từ các bể chứa carbon khác như đất than bùn và đất ngập nước.
Trong giai đoạn 2017 - 2019, thế giới đã ghi nhận những dấu hiệu tích cực cho sự phát triển của thị trường carbon rừng với gần 400 triệu USD được tạo ra từ những giao dịch thị trường các-bon tự nguyện toàn cầu; ít nhất 5,9 tỷ USD đã được chi trả cho các dự án bồi hoàn carbon rừng trên toàn thế giới và ít nhất 1,3 tỷ USD được các bên tăng cường giải ngân hoặc ký hợp đồng để hỗ trợ các nước đang phát triển bảo vệ rừng. Tuy nhiên, những giao dịch này chưa tương xứng với tiềm năng của ngành lâm nghiệp và chịu nhiều ảnh hưởng của các luật định quốc tế về vận hành thị trường carbon.
Điều 139 - Luật Bảo vệ Môi trường 2020 về tổ chức và phát triển thị trường carbon với lộ trình vận hành chính thức từ năm 2028 quy định thị trường carbon bao gồm hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon thu được từ cơ chế bù trừ tín chỉ carbon trong và ngoài nước. Trong các cơ chế này, Việt Nam là một trong những nước thành viên theo thỏa thuận song phương, đa phương hoặc tự nguyện.
Để hướng dẫn thực hiện, ngày 7/1/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô dôn. Trên cơ sở đó, Bộ TN&MT ban hành Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT quy định chi tiết thi hành Luật BVMT về ứng phó với BĐKH. Đây là những văn bản pháp luật quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BĐKH, hiện thực hóa các các cam kết của Việt Nam về giảm KNK, khi bước sang giai đoạn thực hiện các yêu cầu bắt buộc của Thỏa thuận Paris về BĐKH.
Theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP, lộ trình thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK đến năm 2030 được chia theo 2 giai đoạn: 2021-2025 và 2026-2030. Các Bộ thực hiện các biện pháp quản lý để đạt được mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK của quốc gia. Đối với những cơ sở phát thải lớn, trong giai đoạn 2021-2025 chưa bắt buộc giảm phát thải đối với các cơ sở; trong giai đoạn 2026-2030, các cơ sở phát thải lớn phải thực hiện kiểm kê KNK, xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK theo hạn ngạch; được phép trao đổi, mua bán hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ các bon trên thị trường các bon trong nước.
→ Xem thêm ISO 14064 về Hệ thống quản lý xác minh và tính toán khí nhà kính
Song song với lộ trình giảm phát thải khí nhà kính, lộ trình phát triển và triển khai thị trường các bon trong nước cũng được đề xuất tại Điều 17 của Nghị định, cụ thể:
Xây dựng và vận hành tốt thị trường carbon giúp thúc đẩy khối doanh nghiệp thực hiện các hoạt giảm nhẹ phát thải KNK tối ưu, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng carbon thấp nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Để hình thành và phát triển thị trường các bon tại Việt Nam, các đơn vị quản lý nhà nước cần xây dựng, ban hành hệ thống kiểm kê KNK, hệ thống giám sát phát thải KNK và hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định từ cấp quốc gia cho đến cấp cơ sở phát thải, lộ trình giảm phát thải cho từng ngành/tiểu ngành... một cách minh bạch, đầy đủ và phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Với các doanh nghiệp, việc nắm bắt thông tin và chuẩn bị kĩ lưỡng cho việc tham gia thị trường carbon thông qua việc nâng cao năng lực trong hoạt động kiểm kê KNK; đo đạc, báo cáo và thẩm định các hoạt động phát thải KNK cấp ngành, cấp cơ sở; tính toán các kịch bản giảm phát thải là việc làm cấp thiết và cần có lộ trình phù hợp.
Trên cơ sở tổng hạn ngạch phát thải KNK quốc gia, Bộ TN&MT sẽ ban hành định mức phát thải KNK trên đơn vị sản phẩm cho giai đoạn 2026-2030 và hàng năm đối với các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh. Từ đó, và căn cứ theo kế hoạch sản xuất kinh doanh, thị trường sẽ xuất hiện các bên có nhu cầu mua hạn ngạch phát thải cũng như các bên có nguồn hàng tín chỉ giảm phát thải.
Theo lộ trình này, các doanh nghiệp trong danh mục cơ sở phát thải lớn cũng có quy định bắt buộc phải xây dựng kế hoạch giảm phát thải từ năm 2026 trở đi. Trong giai đoạn thí điểm, các ngành, các cơ sở phát thải lớn như thép, nhiệt điện, quản lý chất thải rắn, sản xuất xi măng sẽ được giao nhiệm vụ kiểm kê phát thải theo danh mục do Chính phủ ban hành, đồng thời nâng cao năng lực, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện để tham gia thị trường thương mại khi chính thức vận hành.
→ Xem thêm Chứng nhận ISO 14064
Nếu doanh nghiệp đang có nhu cầu sở hữu Tín chỉ Carbon rừng hoặc chứng nhận kiểm kê khí nhà kính, vui lòng liên hệ với KNA CERT theo số hotline: 093.2211.786 hoặc Email: salesmanager@knacert.com